Admin ♥ Teen chủ tịch tỉnh THD♥
Bài gửi : 339 Số Điểm : 720 Đến từ : Tân Dân- Kinh Môn- Hải Dương Nghề nghiệp : Sinh Viên Humor : Thân Văn Quyết Ngày gia nhập : 10/05/2009
| Tiêu đề: Côn Sơn Kiếp Bạc - Thắng cảnh lịch sử! 17/5/2009, 16:25 | |
| Côn Sơn Kiếp Bạc - Thắng cảnh lịch sử!
Đền Kiếp Bạc-nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có lưng tựa núi Trán Rồng, mặt nhìn ra sông Lục Đầu Giang, thế núi rộng bao quanh mặt thung, lại có Nam Tào, Bắc Đẩu yểm hai bên. Tương truyền, vị trí khu đền Kiếp Bạc nay, xưa là rừng già, rậm rạp và nhiều muông thú. Khi mới về Vạn Kiếp , Trần Hưng Đạo đã nhìn ra đây là một vị trí hiểm yếu có lợi cho chiến lược quân sự, tiến lùi đều thuận lợi đã quyết định chuyển đại bản doanh từ thung lũng trong ra thung lũng ngoài tại đây. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng tài trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ thứ XIII. Những năm tháng thái bình ông về sống ở Vạn Kiếp. Khi ông lâm bệnh nặng, có dặn lại con cháu rằng: “Ta chết tất phải hoả táng, cho xương vào những ống tròn chôn ở vườn An Lạc, rồi trồng cây như cũ để người đời sau không biết đâu mà tìm”. Năm Hưng Long thứ tám (1300), ngày 20/8, Trần Hưng Đạo qua đời tại nhà riêng ở Vạn Kiếp. Kỷ niệm ngày mất của ông, nhân dân mở hội từ 15 đến 20/8 âm lịch hàng năm.
“Tháng Tám hội cha, tháng ba hội mẹ”, câu ca dao ấy chứa đựng tình cảm của mọi người dân đất Việt đối với ngày mất của vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Tại ngôi đền ngày nay, ban quản lý khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã thường xuyên có người túc trực hướng dẫn khách thăm quan. Còn các cụ từ đền lấy làm vinh hạnh và may mắn được trông coi di tích. Cụ Đỗ Văn Nhuận, thủ nhang tại đền cho biết: “Tôi năm nay đã 71 tuổi, ra đây hầu Thánh tôi thấy khoẻ hẳn ra. Công việc chủ yếu hàng ngày tôi hướng dẫn khách thắp hương, đặt lễ đúng quy cách, không đốt nhang quá nhiều làm ảnh hưởng mọi người và đen mất tượng và đồ thờ…”. Không chỉ trông coi di tích, hễ có điều kiện là cụ Nhuận cũng tuyên truyền giáo dục cho con cháu những bài học về đạo lý, về cha ông gắn với truyền thống đất nước. Ông Nguyễn Khắc Minh, trưởng ban quản lý di tích kể cho chúng tôi nhiều điển tích ở nơi đây, trong đó câu chuyện về đôi xương chân voi thật cảm động.
Theo truyền thuyết, đôi xương đó là của con voi chiến được Dã Tượng, một gia tướng quản và huấn luyện, đã cùng Trần Hưng Đạo xông pha chiến trận, lập nhiều chiến công lớn và rất có nghĩa với chủ. Khi bị sa lầy ở sông Hoá, Trần Hưng Đạo tìm mọi cách cho voi lên nhưng không được. Vì việc quân gấp, Hưng Đạo Vương phải để voi lại và dùng ngựa đi tiếp. Người rút gươm chỉ xuống dòng sông “Trận này không thắng ta quyết không về qua sông này nữa”. Nói rồi ra đi. Con Voi nhìn theo chủ ứa nước mắt. Về sau nhân dân đã tạc con voi đá để thờ. Người đời sau đã tìm thấy đôi xương chân voi liền dâng về đền Kiếp Bạc. Còn nhiều câu chuyện huyền thoại khác càng làm cho đền Kiếp Bạc gắn bó sâu sắc với đời sống tâm linh của người dân. Cách đền Kiếp Bạc không xa, chùa Côn Sơn từ lâu cũng đã trở thành một điển tích rất đỗi quen thuộc, thấm đậm tâm hồn dân tộc Việt Nam: “Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh Lâm Vĩnh Nghiêm chưa đến thiền tâm chưa đành” Chùa Côn Sơn tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Núi có hình giống một con sư tử khổng lồ quay đầu trông về Đông Bắc như đang canh giữ cho sự yên lành, u tịch của chốn thiền lâm. Côn Sơn vốn được coi là nơi “Tôn quý của đất trời”, có địa linh nhân kiệt nên sớm trở thành nơi hội tụ danh nhân của một thời đại mà có những người đã đi vào lịch sử Côn Sơn: Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) vị tổ sư thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm - một Thiền phái mang mầu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Trần Nguyên Đán (1325-1390) là một nhà thơ lớn, một nhà lịch pháp và là quan đại tư đồ cuối triều Trần đã về ở Côn Sơn (1385). Ông cho dựng Động Thanh Hư, một công trình kiến trúc nguy nga đã làm tăng thêm sức quyến rũ, thơ mộng cho Côn Sơn. Nguyễn Trãi (1380 –1442) hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) là một nhà văn, nhà chính trị, quân sự và một nhà tư tưởng lớn cả cuộc đời đã tận tuỵ cho nhân dân, cho đất nước. Ông luôn coi núi rừng Côn Sơn là người bạn tâm giao: “Côn Sơn có suối, nước chảy rì rầm ta lấy làm tiếng đàn cầm Côn Sơn có đá, mưa xối, rêu xanh đậm, ta lấy làm chiếu thảm Trong núi có thông, muôn dặm rờn rờn biếc một vùng ta tha hồ nghỉ ngơi Trong rừng có trúc, ngàn mẫu in biếc lục, ta tha hồ ngâm nga bên gốc”. Côn Sơn là nơi san sẻ những vui buồn, căm giận và cũng là nơi ấp ủ lý tưởng làm cháy lên ngọn lửa nhiệt huyết trong trái tim ông. Nơi đây cũng gói trọn những năm tháng cuối đời ông ẩn dật rồi kết thúc bằng vụ án Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi-Côn Sơn đã trở thành tên gọi đi vào tiềm thức dân tộc. Đến với khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc là một dịp hướng lòng về sự thanh trong, ôn lại truyền thống anh hùng của dân tộc và tìm hiểu, học tập về công lao, sự nghiệp, nhân cách của các bậc danh nhân Trần Hưng Đạo - Nguyễn Trãi. Nhiều người đã rưng rưng nước mắt trước anh linh của tiền nhân bởi sự cảm phục, thành kính về tài đức, sự xót xa trước mối oan khiên mà tiền nhân phải trải qua. Đó là tâm tình Nguyễn Trãi, khí phách Trần Hưng Đạo. Tinh thần của họ đã cổ vũ bước chân đi tới của thế hệ sau. Chẳng thế mà có cụ cao tuổi lưng còng như cụ Đỗ Văn Dậu từ Vĩnh Bảo, Hải Phòng đến đây đã lẳng lặng, kiên nhẫn leo lên đến đỉnh núi để mong thu nhận được linh khí đất trời, lòng người về truyền lại cho cháu con. Cụ nói: “Tôi còng lưng thế này nhưng càng leo càng khoẻ ra. Lên đến Am Bạch Vân tôi thấy lòng thật nhẹ nhõm, thanh tao. Phong cảnh nơi đây không chỉ đẹp mà có gì đó rất linh thiêng. Cho nên tôi đã mua các ấn phẩm này về để cho con cháu đọc mà học tập đức tài của các vị anh minh tiền bối…”. Chỉ một chút tâm tình như thế của người đời sau đã thấy rõ giá trị tinh thần của vùng đất con người nơi đây, khẳng định di tích Côn Sơn-Kiếp Bạc sẽ trường tồn cùng non sông đất nước./. Đã bao lần về thăm khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, lần nào tôi cũng có một cảm giác bâng khuâng đến thẫn thờ trước thế giới thâm nghiêm, u tịch, nhưng vẫn sáng ngời ánh hào quang truyền lại từ các bậc tiền nhân - những anh linh nhân kiệt của đất nước… Nơi đây, một năm có hai kỳ hội xuân thu, song dường như quanh năm khách hành hương vẫn lui về thưởng ngoạn. Và cho dù có đông khách đến mấy thì khu di tích này vẫn giữ được độ tĩnh cùng vẻ cổ kính, thâm nghiêm khiến lòng người và cảnh vật cùng thuận hoà, thư thái.
| |
|